Các thành viên của Bát hổ Bát hổ

Lưu Cẩn (1451-1510)

Lưu Cẩn quê ở Hưng Bình, Hàm Dương thuộc tỉnh Thiểm Tây. Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1451 trong gia đình họ Đàm. Tên ban đầu của ông là Đàm Cẩn. Ông tin mình có khả năng ăn nói hùng hồn, vì vậy quyết định trở thành hoạn quan, vì ông coi đó là con đường tốt nhất để thành công. Sau khi trở thành hoạn quan, ông được một hoạn quan khác đã già có họ Lưu nhận nuôi, và đổi tên thành Lưu Cẩn.

Ông bắt đầu làm việc trong cung điện hoàng gia vào những năm 1480, nơi ông bắt đầu hợp nhất với một nhóm mà sau này trở thành Bát hổ. Năm 1492, ông được chuyển từ vai trò là người canh lăng mộ của Minh Hiến Tông sang công việc hầu hạ, phục vụ cho Đông cung Hoàng thái tử Chu Hậu Chiếu, tức hoàng đế Chính Đức tương lai. Lưu Cẩn trở thành người yêu thích của thái tử, và ông trở thành người đứng đầu bộ đánh chuông và trống sau khi Chính Đức lên ngôi năm 1505. Từ đó, Lưu Cẩn dần có thêm quyền lực và sự ảnh hưởng, và được biết đến như là thủ lĩnh của Bát hổ .

Hầu hết các nhà sử học thời Minh và hiện đại đều coi sự trỗi dậy quyền lực của Lưu Cẩn là bạo ngược và mô tả ông là "tàn bạo, độc ác và xảo quyệt". Ông trở thành Trưởng ban Nghi lễ, trong đó ông nổi tiếng với việc thay đổi các tấu chương được gửi đến và phản hồi từ hoàng đế. Điều này có nghĩa là về cơ bản, ông đã kiểm soát những gì hoàng đế biết và những gì hoàng đế đã phê duyệt. Sau đó, ông trở thành Tư lễ giám của các quần thần, và được biết đến vì nhận hối lộ từ các quan chức cấp cao. Ví dụ, ông yêu cầu mười ba quan hành chính tỉnh phải trả cho ông 20.000 lượng bạc khi họ đến thăm kinh đô, ba lần một năm. Ông cũng rất có ảnh hưởng trong quân đội. Ở đỉnh cao quyền lực của Lưu Cẩn, tất cả các hành động quân sự phải được ông chấp thuận, giúp ông có nhiều quyền lực hơn các tướng lĩnh.

Sau khi tái lập Tây Xưởng và giao cho Cốc Đại Dụng quản lý, Lưu Cẩn đã thuyết phục hoàng đế tạo ra một Kho nội vụ (Nội xưởng), nơi sẽ giám sát các mối nguy hiểm trực tiếp lên ngai vàng và sự an toàn của hoàng đế. Kho này được làm giám sát viên cho hai kho kia, Đông và Tây, do đó củng cố quyền lực của Lưu Cẩn. Kho đã bức hại nhiều đối thủ chống đối với Lưu Cẩn và các chính sách của ông ta. Người ta ước tính rằng hơn 1000 người đã bị giết trong Kho Nội vụ.

Từ số tiền có được nhờ tham nhũng, ông tiếp tục phô trương vinh quang và sự giàu có của mình bằng cách xây dựng một cung điện ở quê nhà.

Khi bị lật đổ năm 1510, lực lượng Cẩm y vệ đã được Chính Đức gửi đến để bắt giữ ông và tịch thu tài sản của ông. Trong quá trình lục soát, các binh lính đã tìm thấy tổng cộng 12.057.800 lượng vàng và 259.583.600 lượng bạc, cũng như đá quý, con dấu giả và những chiếc lộng với những con dao giấu bên trong, có vẻ như được sử dụng để hành thích hoàng đế. Ông bị triều đình xử tử bằng hình phạt lăng trì với 1000 vết chém. Ông đã bị chém 3,357 lần trong khoảng thời gian 3 ngày.

Trương Vĩnh (1470-1532)

Trương Vĩnh, một người gốc Tân Thành, Bảo Định, Hà Bắc, không xuất hiện trong các ghi chép lịch sử cho đến thời gian của ông trong nhóm Bát hổ. Trong thời Chính Đức, ông nắm quyền kiểm soát nhiều chức vụ quan trọng và phát triển mối liên kết chặt chẽ giữa ông và Hoàng đế. Bằng cách này, ông bắt đầu coi thường các chính sách và kế hoạch của triều đình. Ví dụ, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của Bộ Doanh thu, ông đã mua thành công một số đất tư nhân hóa. Ông ta kiểm soát Kho Đông xưởng, một trong những kho bí mật và hoạt động tình báo báo cáo với hoàng đế. Ông cũng được trao quyền kiểm soát đồn trú Shen-Chi, được thành lập để cho binh lính luyện tập với súng. Năm 1510, Trương Vĩnh được bổ nhiệm làm Tư lệnh tối cao của quân đội và được phái đi để dập tắt cuộc nổi dậy của An Hóa vương Chu Chí Phiên.

Khi Lưu Cẩn còn nắm quyền, Trương Vĩnh là cánh tay phải của ông ta trên chiến trường và ở nhà. Ông không có mối quan hệ tốt với Lưu Cẩn, nhưng không thể bị tước bỏ quyền lực do năng lực quân sự rất tốt của mình. Trương Vĩnh đã âm mưu cùng với Dương Nhất Thanh để trừ bỏ Lưu Cẩn, và trở thành thành hoạn quan có thế lực nhất trong số các thành viên Bát hổ còn lại sau cái chết của Lưu Cẩn.

Vào tháng 10 năm 1511, Trương Vĩnh đã xin hoàng đế cho phép ông chọn 6.000 quân từ đồn trú kinh thành để huấn luyện đặc biệt làm lực lượng đàn áp nội loạn trong giai đoạn khủng hoảng chính trị. Chính Đức đế đã phê chuẩn yêu cầu do cần thêm quân đội để chiến đấu với lực lượng nổi loạn của Lưu Lục, Lưu Thất.

Vào tháng 7 năm 1514, Trương Vĩnh được giao nhiệm vụ đem quân bảo vệ biên giới phía bắc nhằm chống lại sự xâm phạm của người Mông Cổ.

Tuy nhiên, sau cái chết của Chính Đức đế, địa vị của ông rơi vào trạng thái của một hoạn quan thông thường, và ông được lệnh cho nghỉ hưu bởi tân hoàng đế Gia Tĩnh. Tuy nhiên, đến năm 1529, ông đã bắt đầu lấy lại được một số quyền lực, và được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu của các bộ phận tích hợp. Ông qua đời không lâu sau cuộc bổ nhiệm này.

Cao Phụng (mất năm 1526)

Sau khi Lưu Cẩn chết, Cao Phụng đã trở thành một trong những người đứng đầu mới của Tổng cục Nghi lễ, cùng với Ngụy Bân. Bên cạnh đó, thông tin về Cao Phụng còn hạn chế.

Mã Vĩnh Thành (1468-1526)

Mã Vĩnh Thành đến từ khu vực Bá Châu hoặc Văn An, Lang Phường. Ông ta trở nên giàu có nhờ đi cướp giật trong một băng đảng, nhận hối lộ từ các quan địa phương để họ có thể có được sự ưu ái của hoàng đế. Mã Vĩnh Thành nắm quyền kiểm soát Đông xưởng, nơi hoạt động như một trụ sở gián điệp và cơ quan an ninh bí mật trong triều đại nhà Minh.

Cốc Đại Dụng

Cốc Đại Dụng được biết đến với vị trí đứng đầu Tây Xưởng, nơi mà Chính Đức đế đã mở cửa trở lại vào năm 1506 sau 25 năm ngủ yên do mong muốn có một cơ quan tình báo toàn diện hơn, với Cốc Đại Dụng là lãnh đạo của nó. Tây Xưởng đã bị đóng cửa sau khi Lưu Cẩn bị giết, mặc dù Chính Đức đế vẫn coi trọng Cốc Đại Dụng.

Vào tháng 8 năm 1511, Cốc Đại Dụng được bổ nhiệm làm tổng chỉ huy các vấn đề quân sự và ông đã lãnh đạo một nhóm quân đội ở phía nam kinh đô để chiến đấu với lực lượng phản loạn của anh em Lưu Lục, Lưu Thất. Như một phần thưởng cho việc đánh tan cuộc nổi loạn, những người em trai và anh trai của ông đã được phong thành quý tộc.

Các thành viên trong gia đình ông được đảm nhận các vị trí và vai trò quan trọng trong bộ máy quốc gia. Chẳng hạn, cha của Cốc Đại Dụng được trao quyền chỉ huy Đội cảnh binh mật cùng với cha của Trương Vĩnh.

Ông cũng làm việc trong các dự án xây dựng từ thiện ở Bắc Kinh. Năm 1508, ông đã tặng một chiếc chuông lớn cho chùa Đạo giáo Bạch Vân Quán (Đền Mây Trắng), nơi đã xây dựng một hội trường mới. Vào năm 1510 và 1512, ông đã khôi phục chùa Lingtongmiao ở công viên phía Nam, chùa Yanfasi bên ngoài cổng phía tây của kinh thành và chùa Huguosi (để nó có thể cung cấp nơi ở cho các nhà sư Trung Á). Ông đã sử dụng các khoản đóng góp từ hoàng đế và gia đình hoàng tộc để thực hiện các dự án này, dường như đã được hoàng đế ủy quyền và yêu cầu. Cốc Đại Dụng dường như cũng đã chọn ít nhất một trong những dự án của mình, khôi phục lại một ngôi đền cũ ở vùng đồi núi phía Tây xa xôi, biến nó thành "một khu vực sáng chói và rực rỡ".

Sau cái chết của Chính Đức đế, ông tạm thời được vinh danh với những đóng góp cho triều đình, trước khi bị đày đến Nam Kinh, nơi ông qua đời sau này.

Khâu Tụ

Ông phụ trách kho Đông Xưởng, nhưng mất việc sau khi Lưu Cẩn bị giết. Ông không có bất kỳ tài liệu nào đề cập đến mình, đôi khi chỉ được nhắc đến trong tiểu sử của Bát hổ. Bên cạnh đó, thông tin về Khâu Tụ còn hạn chế.

Ngụy Bân

Ngụy Bân được trao quyền chỉ huy đồn trú san qian ying (三千 營), được tạo nên từ 3.000 người man di đã quy phục thiên triều. Ngụy Bân cũng được biết đến với việc xây dựng Hongshangshi. Ông đã sử dụng bói toán để tìm một nơi chôn cất phù hợp ở vùng ngoại ô phía nam của Bắc Kinh, và xây dựng Hongshangshi ở đó vào năm 1514. Vùng đất được hoàng đế chính thức ban tặng, và ngôi đền được gọi là Đền thờ của ngài Ngụy. Nó nổi tiếng với những vườn táo và những cây cối khác thường. Sau khi Lưu Cẩn bị xử tử, Ngụy Bân đã trở thành một trong những người đứng đầu Ban Giám đốc Nghi lễ, cùng với Cao Phụng. Ngụy Bân quyết định từ quan nghỉ hưu sau khi hoàng đế Gia Tĩnh lên ngôi.

La Tường

Hầu như không có thông tin nào về La Tường, mặc dù được biết rằng ông ta là thành viên của Bát hổ.